Hỏi – Đáp về Đồng Tính Luyến Ái
(Phần 1)
Đây là một tài liệu ngắn gọn dưới hình thức “hỏi-đáp” ở dạng cơ bản, sơ lược về đề tài người đồng tính luyến ái, với định hướng giúp bạn trở nên ngày càng lành mạnh hơn, nếu bạn cho phép điều này xảy ra.
Nếu bạn có một cách tiếp cận hay định hướng khác thì cũng là điều bình thường. Bạn cứ coi như bản thân đang tham khảo thêm một lăng kính khác, bên cạnh lăng kính mà bạn đang có sẵn, với một tinh thần cởi mở và khách quan.
Vài từ ngữ viết tắt:
- SSA = same sex attraction: sự hấp dẫn đồng giới, đồng tính luyến ái;
gay: đồng tính nam;
lesbian: đồng tính nữ;
- GID = gender identity disorder: Rối loạn về căn tính của giới
Trong khoảng bốn mươi năm trở lại đây, việc hiểu biết và điều trị cho những người cảm thấy hấp dẫn đối với người đồng phái (SSA) là một sự cam go và phức tạp. Các chuyên gia thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau cùng các hiệp hội chuyên môn đã chấp nhận thay đổi định hướng một cách đáng kể, nhiều khi do áp lực văn hóa chứ không phải do những dữ kiện mới của khoa học.
Mặc dù trải qua nhiều thay đổi và áp lực đáng kể ấy, chúng tôi luôn ủng hộ một đường hướng tiếp cận lành mạnh dành cho những người cảm nghiệm SSA.
Mọi người thường hỏi:
(Bấm vào mũi tên ở đầu mỗi câu hỏi – để nhận được câu trả lời)
Định nghĩa truyền thống thường mô tả đồng tính luyến ái (homosexuality) hay sự hấp dẫn đồng giới (same-sex attraction – SSA) như là một sự thu hút dai dẳng và nổi trội, về mặt tình dục hay sinh lí, từ phía những người cùng giới với mình.
Chữ “dai dẳng” có ý muốn nói có lẽ đương sự ít cảm thấy thích thú hơn về tình dục đối với người khác phái.
Một định nghĩa truyền thống khác do tiến sĩ Gerard van den Aardweg: “Chúng tôi dùng chữ đồng tính ở đây để chỉ những ước muốn tình dục hướng tới những người cùng phái, đồng thời giảm đi sự thích thú tình dục đối với những người khác phái”(32).
Xu hướng đồng tính không phụ thuộc vào sự thiếu cân bằng hoóc-môn có tính di truyền hoặc do các tiến trình tiếp thu bất bình thường
Từ một quan điểm khác, tiến sĩ Elizabeth Moberly cho rằng xu hướng đồng tính “không phụ thuộc vào sự thiếu cân bằng hoóc-môn có tính di truyền hoặc do các tiến trình tiếp thu bất bình thường, nhưng do từ những khó khăn trong mối quan hệ cha mẹ-con, nhất là trong những năm tháng của thời thơ ấu”(33).
Trong khi nhìn nhận tính phức tạp của hiện tượng đồng tính luyến ái, Moberly lưu ý một nguyên lí cơ bản, đó là: người nam hay người nữ đồng tính đã phải chịu một sự thiếu thốn nào đó trong mối quan hệ với người cha hay người mẹ cùng giới với mình, và có một xung năng tương ứng nhằm cải thiện sự thiếu thốn ấy nhờ mối quan hệ đồng giới hay đồng tính. Có thể tình trạng này là hậu quả của một chấn thương nào đó thời thơ ấu, đã hủy diệt sự quyến luyến đối với người cha hay mẹ đồng giới, để lại nơi đứa bé nhu cầu quyến luyến đồng giới không được thoả nguyện. Điều này không hàm nghĩa người cha/mẹ đồng giới với em chủ tâm bỏ bê hay đối xử với em tàn tệ.
Moberly có ý muốn nói đồng tính (homosexuality) nói chung là một tình trạng tiến thoái lưỡng nan về đồng giới, nghĩa là, trước hết đó là một vấn đề về căn cước hay nhân dạng giới tính (gender-identity) hơn là vấn đề về tình dục-sinh dục (34). Vì đứa bé kìm nén hay trấn áp giới tính của mình, nên xung năng đối trọng để khôi phục lại sự quyến luyến được củng cố mạnh thêm. Hậu quả của sự rời bỏ có tính phòng vệ đó là tình trạng lưỡng nan đồng giới (35).
Quan điểm truyền thống về đồng tính tập trung vào ước muốn tình dục-sinh dục đối với một người đồng phái, trong khi định nghĩa của Moberly thì liên hệ đến sự tiến thoái lưỡng nan; hay nói khác đi, là tình trạng, trạng thái mà khi con người không biết chọn quyết định nào cho đúng, muốn tiếp tục cũng không thành mà buông bỏ cũng không thể, chỉ biết chờ đợi cơ hội khác, về căn cước giới tính (nhân dạng giới tính) của họ.
Tình trạng này tồn tại trước khi xảy ra hoặc độc lập với bất kỳ hoạt động tình dục nào. Điều quan trọng là, nhu cầu về căn cước giới tính của một người có thể (và phải) được đáp ứng cách độc lập đối với hoạt động tình dục. (36).
Moberly có ý muốn nói đồng tính (homosexuality) nói chung là một tình trạng tiến thoái lưỡng nan về đồng giới, nghĩa là, trước hết đó là một vấn đề về căn cước hay nhân dạng giới tính (gender-identity) hơn là vấn đề về tình dục-sinh dục
Mọi người cũng hỏi:
(Bấm vào mũi tên ở đầu mỗi câu hỏi – để nhận được câu trả lời)
Không. Sở dĩ nhiều người nghĩ như vậy bởi vì những người có SSA thường kể rằng họ đã khám phá ra nó chứ không do mình chọn lựa. Các phương tiện truyền thông tiếp tục tuyên truyền rằng khoa học đã khám phá một “gene gay” (gen của đồng tính). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu không tìm ra một nguyên nhân sinh lý của SSA (1-5), và ngay cả những người tranh đấu cho phong trào gay cũng không ủng hộ thuyết về “gene gay”.
Giả như SSA đã được chỉ định trước khi sinh ra, thì trên lý thuyết, tất cả những anh em song sinh đều có cùng một mẫu luyến ái. Tuy như một cuộc nghiên cứu của Australian Twin Registry nơi những người nam đã cho thấy rằng chỉ có 11% các cặp song sinh đồng hợp tử với SSA có một anh em cũng cảm thấy SSA. Ngoài ra cũng cần ghi nhận một số khá nhiều các công trình nghiên cứu đã nêu bật rằng các khuôn mẫu SSA không bền bỉ theo dòng thời gian. Một vài người đã tự ý không coi mình là đồng tính nữa khi họ trưởng thành hoặc nhờ một sự giúp đỡ từ bên ngoài.
Quan điểm truyền thống về đồng tính tập trung vào ước muốn tình dục-sinh dục đối với một người đồng phái, trong khi định nghĩa của Moberly thì liên hệ đến sự tiến thoái lưỡng nan; hay nói khác đi, là tình trạng, trạng thái mà khi con người không biết chọn quyết định nào cho đúng, muốn tiếp tục cũng không thành mà buông bỏ cũng không thể, chỉ biết chờ đợi cơ hội khác, về căn cước giới tính (nhân dạng giới tính) của họ.
Có rất nhiều con đường dẫn đến SSA. SSA và các cách ứng xử liên quan xem ra là hậu quả của một sự kết tinh của nhiều nhân tố của sự phát triển, cảm xúc, tâm lý, xã hội. Mỗi người có SSA có một lịch sử hoàn toàn độc đáo, tuy vậy cũng có vài yếu tố chung:
- Thiếu một mối dây liên kết an toàn giữa cha mẹ – con cái trong thời kỳ ấu nhi.
- Rối loạn về căn tính của giới (GID = gender identity disorder) vào lúc thiếu thời cùng với sự thiếu khuyến khích về phía cha mẹ để cho thiếu nhi đồng hóa mình với những nét của nam tính hoặc nữ tính, và kết thân với những người cùng phái tính. (17)
- Sự phân ly vật lý của một hay của cả hai cha mẹ vào lúc thiếu thời. (17)
- Nơi nam giới, một tương quan thiếu sót giữa cha/con trai, vì nhìn thấy người cha quá xa cách, chỉ trích, ích kỷ, nóng tính hay trước đây nghiện rượu: hoặc nhìn thấy người mẹ như là lộng hành (10,16), lệ thuộc quá đáng, nóng tính và gay gắt. (7,8,12)
- Nơi nữ giới, một người mẹ trầm cảm hoặc bị rối loạn tâm lý trong những tháng đầu tiên của cuộc đời hoặc xa cách về tình cảm, chỉ trích hoặc lộng quyền; không được những bạn đồng tuổi đón nhận; một người cha bỏ rơi gia đình hoặc được nhìn như là nóng tính, chỉ trích, xa cách, ích kỷ hoặc vốn là một người nghiện rượu.
6. Thiếu đồng hóa và thiết lập tình bạn với những người cùng phái tính; cô đơn sâu đậm. (13,14)
7. Nơi nam giới, không được các bạn đồng tuổi đón nhận, hình ảnh tầm thường về thân thể của mình và căn tính nam tính yếu ớt bắt nguồn do thiếu khả năng thực hành các môn thể thao phổ biến (tựa như túc cầu, do kém phối trí vận động tay/mắt). (6,7)
8. Một tiểu sử bị lạm dụng lúc thiếu thời, cách riêng là lạm dụng tính dục hoặc hiếp dâm. (17,18)
9. Mặc cảm tự ti (cảm thấy mình kém nam tính hay nữ tính) hoặc không được thuộc về một giới, dẫn đến thái độ than thân trách phận và bi đát hóa. (7)
10. Một quá khứ cá nhân đã bị chế diễu hoặc kỳ thị bởi những trẻ em khác hay người lớn, do tính tình, tài năng và hình dáng. Cách thức mà em bé phản ứng lại cách thức được đối xử có thể góp phần vào việc phát triển SSA . (7)
11. Quá chú ý đến mình (narcisism) hoặc ích kỷ sâu đậm. (15)
Nơi nam giới, một tương quan thiếu sót giữa cha/con trai, vì nhìn thấy người cha quá xa cách, chỉ trích, ích kỷ, nóng tính hay trước đây nghiện rượu
Nếu một em bé có những triệu chứng của GID (rối loạn căn tính về giới) như: đồng hóa mình với giới bên kia, kém khả năng tương giao với những bạn đồng tuổi thuộc cùng phái tính, thiếu những trò chơi có tính đối kháng (đối với bé trai), ưa cải trang (mặc y phục khác giới), khó chịu với phái tính của mình, sợ xã hội… thì đó chính là điều đáng báo động. Nếu GID không được chữa trị, thì có đến 75% các em bé có thể phát triển SSA. (17)
Có thể chứ. Sớm nhận ra các em bé có nguy cơ, kèm theo tâm lý trị liệu và sự hỗ trợ của cha mẹ: đó là những nhân tố quyết định để phòng ngừa và chữa trị sự đau khổ tình cảm của các em bé và thiếu nhi này (19,20).
Và mọi người cũng quan tâm đến
sức khỏe tinh thần của bản thân
Tham khảo
- Byne, W., et al. Archives of General Psychiatry. 50: 229 – 239, 1993
- Crewdson, J. Chicago Tribune. June 25, 1995
- Goldberg, S. National Review. February 3: 36 – 38, 1992
- Horgan, J. Scientific American. November : 28, 1995
- Thư tịch đầy đủ trong bản văn Homosexuality and Hope.
- Bailey, J. et al.Archives of Sexual Behavior. 22, 5: 461 – 469, 1993
- Fitzgibbons, R. In Wolfe, C. Homosexuality and American Public Life, Spense. 85 – 97, 1999
- Apperson, L. et al. Journal of Abnormal Psychology. 73, 3: 201 – 206, 1968
- Bene, E. British Journal of Psychiatry. 111: 803 – 813, 1965
- Bieber, I. et al. Homosexuality: A Psychoanalytic Study of Male Homosexuals. NY: Basic Books, 1962
- Pillard, R. Psychiatric Annals.18, 1: 52 – 56, 1988
- Sipova, I. et al. Homosexuals and Social Roles, NY: Haworth. 75 – 85, 1983
- Hockenberry, S. et al. Archives of Sexual Behavior. 16, 6: 475 – 492, 1987
- Fergusson, D. et al. Archives of General Psychiatry.56, 10: 876 -888, 1999
- Fitzgibbons, R. in Truth About Homosexuality, Fr. Jhon Harvey, O.S.F.S., ed. Ignatius Press, 1996
- Snortum, J. et al. Psychological Reports. 24: 763 – 770, 1969
- Zucker, K. Et al. Gender Identity Disorder and Psychosexual Problems in Children and Adolescents.NY: Guilford, 1995
- Finkelhor, D. Child sexual abuse: New theory and research.NY: The Free Press, 1984
- Fitzgibbons, R., et al. in Lay Witness. June 2001
- Rekers, G., ed. Handbook of Child and Adolescent Sexual Disorders. Lexington Books, 1997
- Sandfort, T.G. Archives of General Psychiatry. 58, 1:85-91, 2001
- Skegg, K., et al. American Journal of Psychiatry. 160, 3:541-546, 2003
- Herrell, R., et al. Archives of General Psychiatry. 56, 10:867-874, 1999
- Garofalo, R. et al. Pediatrics. 101, 5: 895 – 903, 1998
- Sandfort, T.G. Archives of Sexual Behavior. 32, 1:15-22, 2003
- Xiridou, M. AIDS. 17,7:1029-1038, 2003
- Greenwood, G., et al. American Journal of Public Health. 92, 12:1964-9, 2002
- Hogg, R., et al. International Journal of Epidemiology. 26, 3:657-61, 1997
- Diggs, J. R. “Health Risks of Gay Sex”Corporate Research Council, 2002
- Nicolosi, J., et al. NARTH1998
- Spitzer, R. L. Archives of Sexual Behavior. 32, 5:403-417, 2003
- Van den Aardweg, On the Origins and Treatment of Homosexuality (New York: Praeger, 1986), p. 1.
- R. Moberly, Homosexuality: A New Christian Ethic (Cambridge, England: James Clark, 1983), p. 2.
- F. Harvey, O.S.F.S., The Homosexual Person (San Francisco: Ignatius Press, 1987), p.28.
- R. Moberly, Homosexuality: A New Christian Ethic, được trích lại trong Harvey, The Homosexual Person, p.28.
- Harvey, The Homosexual Person, p.28.